Nội dung chính
Thơ, truyện về chủ đề thực vật lớp 3, 4 tuổi
1. Bài thơ: Chùm quả ngọt
Rung rinh chùm quả mùa xuân
Nhìn ra thì ấm, nhìn gần thì no
Quả nào quả ấy tròn vo
Cành la, cành bỗng thơm tho khắp vườn
Tay ông năm ấy trồng ươm
Bây giờ cháu hái quả thơm biếu bà
Tạ Hữu Nguyên
2. Bài thơ: Cây dây leo
Cây dây leo
Bé tí teo
Ở trong nhà
Lại bò ra
Ngoài cửa sổ
Và nghển cổ
Lên trời cao
Hỏi vì sao
Cây trả lời
Ra ngoài trời
Cho dễ thở
Tắm nắng gió
Gội mưa rào
Cây mới cao
Hoa mới đẹp.
3. Bài thơ: Hoa đồng hồ
Có một loài hoa
Ngủ nhiều hơn thức
Mặt trời lên cao
Hoa mới mở mắt
Mười giờ hoa nở
Hương thoảng nơi nơi
Cánh rung rinh nắng
Đỏ như mặt trời
Không kim, không cót
Mà như đồng hồ
Hoa nở, bé gọi
“Mẹ ơi! Mười giờ”
Đúng giờ, hoa nở
Là hoa đồng hồ.
4. Truyện: Gói hạt kỳ diệu
Bé Vinh đang chơi với gọi hạt rau. Trông những cái hạt giống như những viên bi nhỏ xíu, Vinh nghĩ: “Bi như thế này thì bắn thế nào được!”. Vừa lúc đó, bà đi làm về, thấy Vinh nghịch rau liền bảo:
Sao cháu lại lấy cái này ra chơi? Đây là hạt rau để bà trồng lấy rau tươi cho cả nhà ăn đấy!
Vinh ngạc nhiên quá, thầm nghĩ: “Sao những hạt bé nhỏ này lại cho những cây rau tươi được nhỉ?”. Thấy Vinh ngạc nhiên, bà nói:
– Đây là hạt rau. Khi ta cho hạt rau vào nước ngâm rồi gieo xuống đất, hạt sẽ nảy mầm và trở thành rau tươi đấy!
– Vậy bà mang hạt gieo xuống đất đi bà!
– Được rồi, chiều nay bà sẽ gieo hạt ngay!
Vinh rất nóng lòng muốn biết bà gieo hạt như thế nào. Buổi chiều hôm ấy, bà cuốc và làm nhỏ đất trong vườn.
Vinh cũng theo bà ra vườn và giúp bà nhặt cỏ rồi xem bà trồng rau.
Từ hôm đó, ngày nào bà cũng tưới nước, còn Vinh ra ngó xem cây rau đã mọc chưa. Một ngày hai ngày, rồi ba ngày…, ngày thứ tư, những cây rau nhỏ xíu đã nhú lên khỏi mặt đất. Vinh vui sướn chạy vào khoe với cả nhà. Đối với Vinh, đó thật là một điều kì diệu.
Sáng chủ nhật, bà ngoại ở dưới quê lên chơi, Vinh dẫn bà ra tận vườn để ngắm những cây rau bé xíu.
Hôm đó, Vinh theo bà ngoại về quê chơi. Nửa tháng sau, Vinh mới từ quê lên.
Vừa về đến nhà, Vinh đã chạy ra ngoài vườn. Ôi, kỳ lạ quá! Những cây rau nhỏ xíu không còn nữa mà thay vào đó là một luống rau xanh mơn mởn. Vinh chạy vào nhà hỏi bà:
– Bà ơi, những cây rau nhỏ xíu đâu rồi ạ?
– Bà cười nhìn Vinh thật âu yếm:
– Những cây bé xíu được sự chăm sóc của mẹ cháu, bây giờ đã thành những cây rau tươi tốt rồi đấy!
Bữa cơm hôm ấy có đĩa rau xanh, mẹ nói đấy chính là rau bà trồng trong vườn nhà. Vinh ăn rất nhiều và cảm thấy rất vui vì Vinh đã hiểu ra: Chính bà và mẹ đã làm ra điều kì diệu biến gói hạt nhỏ xíu thành đĩa rau xanh.
1. Bài thơ: Cây đào
Cây đào đầu xóm
Lốm đốm nụ hồng
Chúng em chỉ mong
Mùa đào mau nở
Bông đào nho nhỏ
Cánh đào hồng tươi
Hễ thấy hoa cười
Đúng là tết đến.
2. Bài thơ: Tết đang vào nhà
Hoa đào trước ngõ
Cười vui sáng hồng
Hoa mai trong vườn
Rung rinh cánh trắng
Sân nhà đầy nắng
Mẹ phơi áo hoa
Em dán tranh gà
Ông treo câu đối
Têt đang vào nhà
Sắp thêm một tuổi
Đất trời nở hoa.
3. Bài thơ: Gà mẹ đếm con
Cục…cục…gà mẹ đếm
Một , hai, ba và nhiều
Đàngà con vừa nở
Chẳng biết là bao nhiêu
Có hạt nắng bé xíu
Vừa rơi trên nền nhà
Thế là cả đàn gà
Ùa lên tranh nhau nhặt
Gà mẹ sợ con lạc
Cục cục đuổi theo sau
Phải bắt đầu đếm lại
Một , hai, ba và nhiều.
4. Bài thơ: Mùa xuân
Trên cánh đồng trải dài màu xanh
Nghe hân hoan tiếng đập cánh con chim hoạ mi bay theo hình dải lụa
Dường như đó là chiếc thắt lưng của nàng công chúa
Đêm qua vừa kịp đến làng
Mùa xuân bất ngờ sang từ một búp bàng
Như con mắt thức dậy sau ngàn ngày chờ đợi
Lạ lùng gió cứ nồng nàn tràn tới
Dường như đầy ắp cánh đồng ….
Nghe trong lòng như có một quả chuông
Năm giờ sáng chợt ngân lên kỳ diệu
Trước sân nhà hoa đào hồng như má người say rượu
Còn chú mèo lười đi từ bếp ra sân
Bao mơ ước trở về trên đôi cánh mùa xuân
Trong giây lát mẹ dường như trẻ lại
Khi mẹ đứng trước thềm nhà gió thổi tung mái tóc
Em quàng chiếc khăn ngày bắt đầu đi học
Ngồi nói chuyện với chú mèo
Mùa xuân về bao mới mẻ mang theo
Sau cơn mưa mặt đất có phép màu
Nắng bừng sáng trong khu vườn lạnh lẽo
Và tiếng cười đang ở lại trong ngôi nhà, trong nồi bánh đang reo
1.1. Sự tích bánh chưng, bánh dầy
Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”.
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu (còn gọi là Lang Liêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành.”
Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầỵ Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
1.2. Truyện: Bánh trưng bánh dày
Tục truyền rằng Vua Hùng Vương thứ 6 có 20 người con, văn võ kiêm toàn. Nhân dịp dẹp xong giặc Ân cùng ngày đầu năm Vua cho mở hội khao quân và cho toàn dân vui Xuân. Hầu muốn chọn được một thái tử xuất sắc, Vua liền truyền chỉ: hoàng tử nào dâng lên Vua cha của ngon vật lạ, chưa từng thấy mà làm vừa lòng Vua hơn cả, sẽ được lên làm Thái Tử.
Nghe thế, các hoàng tử đua nhau sai gia nhân lên rừng, xuống bể tìm những của hay, vật lạ đem về để dâng lên cho vua trong ngày Hội.
Riêng hoàng tử Lang Liêu, người con thứ 18, có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Nhưng vì mồ côi mẹ và lại ít gia nhân, nên không biết phải làm gì để đua tranh với các anh mình.
Một hôm ông nằm mộng thấy một vị thần hiện lên, đầu râu tóc bạc phơ, tỏ lòng thương hại hoàng tử là con người hiền lành lại hiếu thảo, nên đã mách bảo:
– Con ơi, trên đời không gì quý trọng bằng cơm gạo. Thóc lúa là của ăn trời ban cho. Con hãy lấy gạo nếp mà làm thành hai thứ bánh. Một bánh nặn hình tròn, tượng trưng cho Trời; một bánh gói thành hình vuông, tượng trưng cho Ðất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành. Gói xong, cột lại, đem nấu chín, rồi dâng lên cho Vua cha thì không có lễ vật nào sánh kịp được.” Nói xong, vị thần biến mất!
Tỉnh dậy, Ông vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầy. Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.
Ðến ngày Hội Xuân, Vua cha cùng Hoàng hậu ngự giá mở Hội. Các hoàng tử anh ngài lần lượt người trước kẻ sau, dâng lên Vua cha những của lạ, hiếm có mà gia nhân đã ra công lên rừng xanh, xuống đáy biển tìm kiếm đem về. Ai nấy đều hy vọng được vừa lòng vua cha, vì toàn những của vật lạ, hiếm-hoi, chưa từng ai tìm thấy. Hoàng tử Lang-Liêu nghĩ mình phận em, lễ vật lại quá thô sơ tầm thường vì là bánh làm bằng cơm gạo ăn hàng ngày, nên do dự không tiến dâng lễ vật.
Vua Hùng Vương khi đến phần lễ vật của Hoàng tử Lang-Liêu thì lấy làm ngạc nhiên lễ vật đơn sơ. Nhưng sau khi nếm thử Vua càng ngạc nhiên vì bánh rất ngon. Vua Hùng Vương lấy làm lạ liền hỏi nguồn gốc, Hoàng tử Lang Liêu thật thà kể lại câu chuyệnThần hiện ra mách bảo trong mộng. Vua Hùng Vương vô cùng vui mừng vì ngài biết rằng trời đã muốn giúp mình chọn được thái tử tài-ba đức hạnh, thay mình trị-vì toàn dân sau này.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
Thơ, truyện về chủ đề quê hương của bé – Bác Hồ
1. Bài thơ: Buổi sáng quê nội
Khi mặt trời chưa dậy
Hoa còn thiếp trong sương
Khói bếp bay đầy vườn
Nội nấu cơm, nấu cám
Đàn trâu ra đồng sớm
Đội cả sương mà đi
Cuối xóm ai thầm thì
Gánh rau ra chợ bán
Gà con kêu trong ổ
Đánh thức ông mặt trời
Chú Mực ra sân phơi
Chạy mấy vòng khởi động
Một mùi hương mong mỏng
Thơm đẫm vào ban mai
Gió chạm khóm hoa nhài
Mang hương đi khắp lối
Buổi sáng ở quê nội
Núi đồi ngủ trong mây
Mặt trời như trái chín
Treo lủng lẳng vòm cây.
2. Bài thơ: Hồ sen
Hoa sen đã nở
Rực rỡ đầy hồ
Thoang thoảng gió đưa
Mùi hương thơm ngát
Lá sen xanh ngát
Đọng hạt sương đêm
Gió rung êm đềm
Sương long lanh chạy.
6. Truyện: Ai ngoan sẽ được thưởng
Trong sân trại nhi đồng, bé Tộ đang tập múa hát với các bạn thì bỗng thấy tiếng các bạn reo lên:
– Bác Hồ đến! Bác Hồ đến!
Thế là tất cả mọi người cùng ùa ra đón Bác. Tộ cố len lên phía trước để được nhìn Bác cho rõ hơn. Bác Hồ đang đi đến với các cháu đây, giống Bác Hồ ở trong ảnh lắm. Tộ chọn chỗ đứng gần nhất để nhìn Bác nhiều và lâu hơn. Tộ nhìn Bác mãi không thôi…..
Tộ cứ tưởng Bác vào lớp học, nhưng không. Bác dắt hai bạn nhỏ đi vào phòng họp rồi xuống thẳng nhà ăn, phòng tắm, phòng ngủ, nhà bếp …của trại . Tộ đã tìm cách đến gần Bác hơn nữa, gần đến mức Tộ đi sát ngay cạnh Bác từ lúc nào.
Trở lại phòng, Bác ngồi xuống và bảo các cháu ngồi xung quanh. Bác hỏi:
– Các cháu chơi có vui không?
Cả trại cùng thưa:
– Thưa Bác vui lắm ạ!
Bác cười:
– Các cháu ăn có no không?
Cả trại cùng thưa:
– No ạ!
Bác vui lòng khen:
– Thế thì tốt lắm. Bây giờ Bác chia kẹo cho các cháu. Các cháu có thích kẹo không?
Cả trại lại thưa vang:
– Có ạ! Có ạ!
Một bé gái gơi tay xin nói:
– Thưa Bác ai ngoan sẽ được ăn kẹo ạ!
Bác gật đầu:
– Các cháu có đồng ý không?
– Đồng ý ạ, đồng ý ạ!
Bác đứng lên cầm kẹo chia cho từng cháu một. Ai cũng vui, cũng cười tươi, chỉ có Tộ là hơi buồn. Tộ tự nhận thấy mình chưa ngoan. Khi Bác đưa kẹo cho Tộ, Tộ cúi đầu khẽ thưa:
– Thưa Bác hôm nay cháu không vâng lời cô giáo, cháu chưa ngoan ạ…
Giọng của Tộ nghẹn ngào hối hận. Bác hiền từ cúi xuống xoa đầu đứa cháu bé bỏng nhưng đã dũng cảm nhận khuyết điểm. Bác khen:
– Cháu biết nhận lỗi thế là ngoan lắm đấy. Cháu vẫn được phần kẹo như các bạn khác.
Tộ sung sướng quá, ngẩng đầu nhìn Bác đặt phần kẹo vào tay em…
Thế rồi Bác còn quay lại bảo các cô cất phần kẹo cho các cháu vắng mặt.
Kẹo ngon Bác cho, Tộ đã ăn hết từ lâu nhưng tình thương của Bác đối với các cháu nhỏ thì Tộ vẫn còn nhớ mãi, không thể nào quên được…
Thơ, truyện về chủ đề nước và hiện tượng tự nhiên
1.Bài thơ: Cóc kiện trời
Đã lâu không có mưa rơi
Gió thì cuồn cuộn tả tơi rừng dừa
Nắng thiêu nắng đốt đồng trưa
Ruộng khô đất cứng đường bừa khổ trâu
Quắt queo nương lúa bãi dâu
Sông sâu trơ đáy lấy đâu nước vào
Thương cây cóc đứng bờ ao
Kiện trời sao chẳng mưa rào đồng ta?
Tiếng kêu vọng tới Ngân Hà
Ngọc Hoàng vội phái mưa sa nước về
Muôn loài nhảy múa hả hê
Cóc vui cóc xuống chân đê hẹn hò
2. Bài thơ: Mùa xuân – Mùa hè
Mùa xuân hoa nở đẹp tươi
Bướm con bướm mẹ ra chơi hoa hồng
Bướm mẹ hút mật đầu bong
Bướm con đùa với nụ hồng đỏ hoe
Vui sao khi chớm vào hè
Xôn xao tiếng sẻ tiếng ve báo mùa
Rộn rang là một cơn mưa
Trên đồng bông lúa cũng vừa uốn câu.
Trần Đăng Khoa
3. Truyện: Nàng tiên mưa
Hôm nay, Vịt con được mẹ cho ra sông tắm mát. Vịt con thích lắm. Những hạt nước bé xíu tinh nghịch rủ nhau trèo lên lưng, lên đầu Vịt con rồi lại lăn xuống mặt nước. Bỗng nhiên, một hạt nước bé xíu chạy đến ghé vào tai Vịt con thì thầm: “Vịt con ơi, chúng tôi sắp xa ban để lên đường làm nhiệm vụ của mình rồi”. Vịt con ngơ ngác nhìn những hạt nước biến thành hơi bốc lên trời như những nàng tiên tuyệt diệu.
Ông Mặt Trời càng lúc càng tươi, ánh nắng gay gắt hơn.
À, thì ra ánh nắng của ông Mặt Trời đã chiếu xuống mặt nước làm những hạt nước bốc thành hơi, nhưng hơi nước bốc lên trời để làm gì? – Vịt con vừa bơi vừa nghĩ.
Buổi chiều, những đám mây đen kéo về che lấp cả một khoảng trời rộng lớn. Từ trong đám mây, những giọng nói quen thuộc cất lên:
– Vịt con ơi, có thấy chúng mình không? Chúng mình là những giọt nước bé xíu từ sông, từ biển cả đấy!
– Các bạn đang ở đâu? – Vịt con trả lời.
– Chúng tôi ở trên những đám mây đen nặng trĩu này.
– Vậy các bạn có xuống mặt đất và trở lại thành những hạt nước bé xíu được nữa không? – Vịt con hỏi.
– Có chứ! Chúng tôi sắp gặp Vịt con để đùa nghịch rồi đấy.
Giữa lúc đó, chị Gió ào tới làm những chiếc lá vàng rơi đầy một góc sân nhà Vịt con, những tia chớp ngang bầu trời loé lên. Thế là trận mưa rào chiều nay đã đổ xuống. Lộp bộp! Lộp bộp! Âm thanh vang lên như bản nhạc giao mùa. Vịt con ngắm nhìn và cảm thấy thích thú.
Cơn mưa rào ngớt dần, bầu trời sáng hẳn ra. Những đám mây đen biến đâu mất. Vịt con lạch bạch chạy ra luống rau mới được trồng hôm trước: “Ôi chao! Sao những ngọn rau mơn mởn lạ lùng, những chồi non vừa mới nhú. Trên ngọn rau xanh, những giọt nước bé xíu e ấp trong sáng như những ngôi sao lấp lánh giữa bầu trời xanh”. Vịt con chạy ào tới, dang đôi tay nâng niu những giọt nước. Vịt con thì thầm: “Sao các bạn lại trở thành mưa thế?”
– Vịt con biết không? Hơi nước bốc lên trời tạo thành những đám mây đen. Khi gặp không khí lạnh, những đám mây tụ lại rơi xuống mặt đất thành mưa, và chúng tôi lại trở thành những hạt nước bé xíu đấy!
– Ôi hay quá! – Vịt con reo lên – Vậy thì từ nay, Vịt con không gọi các bạn là những hạt mưa bé xíu nữa đâu mà sẽ gọi các bạn bằng cái tên thật dễ mến: Nàng tiên Mưa. Các bạn có thích không?
Các nàng tiên Mưa khoái chí, cười rung cả luống rau rồi tí tách rơi xuống. Chúng hợp với nhau thành một dòng suối trong vắt, mát lạnh. Vịt con soi bóng mình dưới nước. Dòng suối chở Vịt con ra cái ao trước nhà. Vịt con lại say sưa chơi cùng các nàng tiên Mưa.
Thơ, truyện về chủ đề động vật
Bài thơ: Rong và cá
Có cô rong xanh
Đẹp như tơ nhuộm
Giữa hồ nước trong
Nhẹ nhàng uốn lượn
Một đàn cá nhỏ
Đuôi xanh, đuôi hồng
Quanh cô rong đẹp
Múa làm văn công.
8. Bài thơ: Kiến tha mồi
Con Kiến trẻ xíu
Kéo đi từng đàn
Tha nồi mê mải
Chất đầy từng gian
Kiến đi trật tự
Chẳng hề giành nhau
Mỗi khi gặp bạn
Kiến chạm đầu chào
Truyện: Gà trống và vịt bầu.
Gà Trống và Vịt Bầu là đôi bạn rất thân. Gà Trống tính tình kiêu căng, còn Vịt Bầu thì hiền lành, ngoan ngoãn và tốt bụng.
Một hôm, hai bạn xin phép bố mẹ rủ nhau đi chơi. Bố mẹ của hai bạn dặn rằng: “Các con đi chơi hoặc đi đâu, muốn làm một việc gì đó thì phải suy nghĩ thật kỹ rồi mới làm nhé!”
Hai bạn vừa đi vừa trò chuyện ríu rít. Đến một khúc sông rộng, Vịt Bầu bảo Gà Trống:
-Gà Trống ơi! Phía bên kia sông cảnh đẹp lắm!
Gà Trống nhìn thoáng qua rồi nói với Vịt Bầu:
-Ừ nhỉ! Chúng mình sang bên kia sông chơi đi!
Vịt Bầu nghe Gà Trống nói, chợt nhớ lời mẹ dặn liền suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
-Không được đâu Gà Trống ơi! Khúc sông rộng như thế này, mình thì bơi được, còn bạn thì biết làm sao? Bạn
không nhớ lời bố mẹ dặn à?
Vịt Bầu vừa nói dứt lời thì Gà Trống đáp ngay:
-Ôi dào! Cậu biết bơi thì bơi, còn mình biết bay thì bay chứ sao! Bởi vì mình có cánh mà.
Vịt Bầu chưa kịp ngăn bạn thì Gà Trống đã vỗ cánh bay vèo. Nhưng đến giữa sông, Gà Trống nhìn xuống dòng nước đang chảy, chóng mặt và mỏi cánh quá không thể bay được nữa. Gà Trống bị rơi tõm xuống sông.
Gà Trống kêu thất thanh:
-Cứu mình với Vịt Bầu ơi! Cứu mình với!…
Vịt Bầu vội bơi ra giữa dòng để cứu Gà Trống. Nhưng Gà Trống vừa to, vừa uống một bụng nước đầy nên Vịt Bầu chẳng làm sao đưa Gà Trống lên bờ được. Cũng may lúc đó bác Ngỗng Nâu bơi tới và đưa Gà Trống lên bờ.
Được Vịt Bầu và bác Ngỗng Nâu cứu sống, Gà Trống ân hận lắm. Từ đó, Gà Trống bỏ được tính kiêu căng và luôn nhớ lời bố mẹ dặn.
Truyện: Ba con gấu
Đang hái hoa, cô bé Tóc Vàng vội đứng dậy: “Ôi! Trời lại mưa rồi, phải tìm chỗ trú thôi”.
Cô chạy vào một ngôi nhà nhỏ và nhình thấy ba cái bàn và ba cái bát, một cái nhỏ, một cái vừa và một cái to. Cô ngồi xuống và ăn thức ăn để trong ba cái bát và tự nhủ: “ Ngon tuyệt!”. Cô nhìn xung quanh và nhìn thấy ba cái giường, một cái nhỏ, một cái vừa và một cái to. Cô reo lên sung sướng: “Ôi! Những cái giường mới ấm áp làm sao!”. Cô chọn cái giường lớn nhất để ngủ.
Một lát sau, Gấu bố, Gấu mẹ và Gấu con về đến nhà. Vừa bước vào nhà, Gấu bố giận giữ gầm lên:
– Có ai đã đến đây thế này?
– Khi thấy các bát đều hết sạch thức ăn, Gấu mẹ kêu lên:
– Ai đã ăn hết thức ăn của chúng ta rồi?
Nghe tiếng ồn, cô bé Tóc Vàng choàng tỉnh dậy và kể lại cho gia đìng Gấu biết vì sao cô lại ở trong ngôi nhà này. Nghe xong Gấu Bố, Gấu Mẹ vá Gấu Con mỉm cười và đưa cô về nhà
Từ hôm ấy cô bé Tóc Vàng trở thành người bạn thân thiết của gia đình Gấu.